Tên Việt Nam:GẮM CHÙM TO
Tên Latin:Gnetum macrostachyum
Họ:Dây gắm Gnetaceae
Bộ:Dây gắm Gnetales 
Lớp (nhóm):Cây leo thân gỗ  

DÂY GẮM CHÙM TO

Gnetum macrostachyum Hook.f.

Họ: Dây gắm Gnetaceae

Bộ: Dây gắm Gnetales

Đặc điểm nhận dạng:

Dây leo dài 10 - 30cm, với nhánh có lỗ bì. Lá dai, hình trứg dài, dài 15 - 18cm, rộng 6 - 8cm, cuống dài 1cm, gân nổi rõ ở hai mặt. Nón đực đơn, dài 5cm, nhị thò ra, có 2 ô hình trứng dài. Nón cái đơn, dài 9cm, lá noãn có lông, đầu có mỏ. Quả không cuống, hình trứng, cỡ 2 x 1,2cm, nâu bóng, khi chín màu đỏ, nằm xen trong đám lông dài màu nâu.

Sinh học, sinh thái:

Cây mọc trong rừng rậm ẩm, thường ở dọc bờ sông, trên đất sét - cát khá tốt, trên đất đỏ hay đen, ở độ cao 200 - 900m. Ra hoa tháng 1 - 2, có quả tháng 2.

Phân bố:

Loài của Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, bán đảo Malaysia, Indonesia (các đảo Sumatra, Java, Calimanta) đến đảo Irian (Bắc Australlia). Ở nước ta có gặp ở Khánh Hoà, Đồng Nai tới Bình Dương, Kiên Giang.

Công dụng:

Dây rất dai, chắc, người dân miền núi dùng để làm thừng, chạc, làm dây nỏ. Quả ăn được và Rễ và thân dây gắm được dùng làm thuốc giảm đau, chữa phong tê thấp, Gout, sản hậu gầy mòn, giải các chất độc (độc thức ăn, sơn ăn da, rắn cắn...) cũng dùng làm thuốc chữa sốt và sốt rét. Rễ gắm còn dùng chữa kinh nguyệt không đều. Lá gắm giã đắp chữa rắn cắn. Ở Ấn Độ, dầu hạt dùng xoa bóp trị bệnh tê thấp; thân cây và rễ cây cũng được dùng làm thuốc hạ nhiệt.

 

Mô tả loài: Trần Hợp - Phùng mỹ Trung

Nguồn : Sinh Vật Cảnh Việt Nam